Tượng 18 A La Hán có ý nghĩa nhất định trong văn hóa tâm linh, tín ngưỡng Phật Giáo của người dân Việt . Cho nên việc tìm hiểu ý nghĩa của tượng 18 vị La Hán, cách bài trí sao cho phù hợp là điều quan trọng được rất nhiều người quan tâm. Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết bên dưới cùng dieukhacvannhan.com nhé.
18 A La Hán được biết đến là những đệ tử đắc đạo tu thành chính quả của Đức Phật có tu vi vô cực. Tương truyền rằng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì muốn Phật pháp được lưu truyền mãi mãi ở hậu thế nên đã dặn dò 18 vị La Hán vĩnh viễn ở lại thế gian hộ Pháp, thực hiện phổ độ chúng sanh, đoạn tuyệt muộn phiền 3 cõi giới. Vì vậy, hiện nay có vô số ngôi chùa đặt tượng 18 A La Hán để tưởng nhớ. Hãy cùng tìm hiểu về 18 vị La Hán trong những phần bên dưới đây nhé.
La Hán nghĩa là gì?
- La Hán là những đệ tử đắc đạo của Phật khi tu thành chánh quả. La Hán nghĩa là đã đoạn tuyệt được với thất tình lục dục, vĩnh viễn giải thoát khỏi luân hồi.
- La Hán theo tiếng Phạn là một phiên âm của tiếng Arahat hay A la Hán mang 3 ý nghĩa:
- Thứ nhất là “Sát tặc” có nghĩa là người đã loại bỏ được những muộn phiền thế gian, sáng suốt đưa lối chúng sinh thoát khỏi vọng tưởng, tham lam, đố kỵ, mê hoặc bởi sự nhiễu loạn của nội tâm, làm trở ngại trong việc tu dưỡng. Có thể hiểu La Hán là những vị diệt trừ những mối họa này.
- Thứ hai là “Ứng cung”, thường mang ý nghĩa đoạn tuyệt với sinh tử, luân hồi. Các vị chính quả La Hán này được trời cung dưỡng nên cả người và tâm luôn thanh tĩnh.
- Thứ ba là “Vô sinh” mang ý nghĩa bất diệt, đạt cảnh giới Niết Bàn, luôn bất biến, không rơi vào sinh tử.
Ý của của tượng 18 A La Hán
Tượng 18 A La Hán được khắc họa với những hình tạng khác nhau về tư thế, nét mặt, biểu cảm vô cùng trang nghiêm và cao quý của các vị. Hơn thế nữa, mỗi vị La Hán đều có những điểm riêng biệt khác nhau. Chính điều này, 18 A La Hán đã trở thành hình tượng nghệ thuật sắc sảo mang nhiều ý nghĩa mãi cho đến ngày nay.
Tượng La Hán Ba Tiêu
Tên của Ngài là Phạt-na-bà-tư (Vanavàsin). Theo truyền thuyết khi mẹ Ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật, Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La-hán Ba Tiêu. Theo Pháp Trụ Kinh, Ba Tiêu La Hán được mô tả ngồi trong hang đá, áo choàng mặc qua vai. Hai tay lúc nào cũng để trong ống áo, khuôn mặt thư thái, cặp mắt nhắm như đang thiền định. Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 14, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ.
Tượng La Hán Bố Đại
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà – Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người. Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ 13, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp.
Tượng La Hán Cử Bát
Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà (Kanakabharadvaja). Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử Bát. Có thể nói, hình tượng cầm bát sắc khất thực của Ngài chính là lời giáo huấn cho nhân gian về khổ hạnh cũng như chữ nhẫn đáng trân quý. Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị La-hán thứ 3, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.
Tượng La Hán Hàng Long
Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la (Nandimitra), Trung hoa dịch Khánh Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử. Ngài gắn liền với dáng vẻ mạnh mẽ, chân đạp trên một con rồng hung ác, ngài thần thông, đạo hạnh cao vời vợi. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Tuy đã thiêu thân, nhưng Tôn giả không rời nước Sư Tử, Ngài bay về động đá trên núi để tọa thiền. Vĩnh viễn ở lại nhân gian và trở thành 1 trong 18 vị La Hán hoằng hóa, phổ độ chúng sinh.
Tượng La Hán Khai Tâm
Ngài tên là Thú-bác-ca (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào, thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi leo lên thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang nào dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin quy y làm đệ tử. Sau 7 năm khổ hạnh, ngài được chứng quả A-la-hán và có tên là Khai Tâm La Hán.
Hình tượng của ngài được khắc họa với hình ảnh luôn vạch áo ngực để lộ rõ tâm Phật, thể hiện đức tin cao cả không có gì đổi dời, là chân lý sáng soi ngàn đời trong việc giáo huấn chúng tăng về đạo ngộ. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ 9, thường cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương Túy.
Tượng La Hán Kháng Môn
Tên của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc (Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia Ngài không tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ dạy lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.
Hình tượng của ngài được khắc họa đang cầm một cây gậy có treo những chiếc chuông nhỏ. Đây là vật mà Phật đã trao tặng cho ngài nhằm giúp ngài khất thực mà không cần gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung lên. Cây gậy nhỏ này đã trở thành biểu tượng của của Tôn giả và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật Giáo. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ 16, cùng với 1.600 vị A-la-hán thưòng trụ tại núi Trì Trục.
Tượng La Hán Khánh Hỷ
Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha (Kanakavatsa), còn gọi là Yế
t-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là vị La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia Ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn sâu dày Ngài chứng quả A-la-hán rất mau.
Với nụ cười phúc hậu, ngài là hiện thân của việc giáo dục đối nhân xử thế, lòng từ bi và biết hướng thiện, nhắc nhở con người cần giữ lấy thân, miệng để không sa vào thù hận, giận hờn. Đây cũng có lẽ là vị La Hán biết phân biệt đúng sai nhất trong 18 vị La Hán. Sự tồn tại của ngài như lời nhắc nhở mọi người cần phải giữ gìn lấy thân, miệng, ý để không chìm trong giận hờn, thù hận xấu xa. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ 2, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (Kashmir).
Tượng La Hán Khoái Nhĩ
Ngài tên là Na-già-tê-na (Nagasena) hay còn gọi là Na Tiên. Nagasena theo tiếng phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh thiên nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện luận.
Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tay một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài cũng là vị La-hán thứ 12, thường cùng 1.200 vị La-hán trụ trong núi Bán-độ-ba.
Tượng La Hán Kỵ Tượng
Tên của Ngài là Ca-lý-ca (Kalika),hay còn được gọi là Phất Trần La Hán trước khi xuất gia làm nghề quản tượng (huấn luyện voi). Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở tại quê hương mình (Tích Lan) để ủng hộ Phật pháp. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ 7, cùng với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).
Tượng La Hán Phục Hổ
Tên của ngài là Đạt-ma-đa-la (Dharmatrata), người ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán thờ trong điện. Với lòng thành tín đạo, ngài đã được các vị La Hán chỉ dạy tu tập để được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm tu hành, thực hiện lời dạy của bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả.Thành một A-la-hán thần thông tự tại. Ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh thuyết pháp, gặp tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn giả ba lần thu phục một con hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng Ngài người ta vẽ thêm một con hổ, Ngài thành danh La-hán Phục Hổ.
La-hán Hàng Long và La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách tượng 18 A La Hán, để trở thành một truyền thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.
Tượng La Hán Quá Giang
Tên của Ngài là Bạt-đà-la (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền. Theo truyền thuyết, ngài rất thích tắm rửa, mỗi ngày có thể tắm lên đến chục lần. Việc này đến tai đức Phật, Thế Tôn kêu Tôn giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa thiết thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy rửa cấu uế trong tâm, gột sạch các tham sân phiền não để cả thân tâm đều thanh tịnh. Tiếp nhận lời Phật dạy, Tôn giả hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm rửa, siêng năng gột rửa tâm nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Vì vậy, hiện thân của ngài mang ý nghĩa thanh tẩy, gột rửa ô uế và thức tỉnh tư duy.
Tôn giả cũng thường dong thuyền đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ như Java, Jakarta… nên được mang tên La-hán Quá Giang. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ 6, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại Đam-một-la-châu.
Tượng La Hán Thác Tháp
Tôn giả Tô-tần-đà (Subinda) nâng bảo tháp Xá lợi Phật. Tên của Ngài là Tô-tần-đà (Subinda). Thường ngày, Ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích nói chuyện. Tôn giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên chứng quả A-la-hán rất sớm.
Tôn giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la để giáo hóa. Hình tượng Ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế Ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp. Theo Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ 4, thường cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu.
Tượng La Hán Thám Thủ
Ngài tên là Bán-thác-ca (Panthaka), Trung Hoa dịch: Đại lộ biên sanh. Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc. Tương truyền hai anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục Ấn Độ. Hình tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau cơn thiền định. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ 10, Ngài thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
Tượng La Hán Tiếu Sư
Tên của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la (Vajraputra). Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn quít bên Ngài, do đó Ngài biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử. Theo Pháp Trụ Ký. Ngài là vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán trụ ở châu Bát-thích-noa.
Tượng La Hán Tĩnh Tọa
Tên của Ngài là Nặc-cù-la (Nakula). Trên vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền thuyết, Ngài thuộc gia cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cù-la được xếp vào vị trí La-hán thứ năm, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Chiêm Bộ Châu. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cù-la được xếp vào vị trí La-hán thứ 5, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Chiêm Bộ Châu.
Tượng La Hán Tọa Lộc
Ngài tên là Tân-đầu-lô-phả-đọa (Pindolabharadvaja), xuất thân dòng Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu tập, sau khi chứng Thánh quả cỡi hươu về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng danh hiệu La-hán Cỡi Hươu. Tôn giả Tân-đầu-lô là một vị La-hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ 1, thường cùng 1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hạ Châu.
Tượng La Hán Trầm Tư
Ngài tên là La-hầu-la (Rāhula). Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Sau khi chứng quả A-la-hán, Ngài lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng Ngài là Mật hạnh đệ nhất và chọn Ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức tánh lặng lẽ, Ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ 11, thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
Tượng La Hán Trường Mi
Tên của Ngài là A-thị-đa (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán. Trong thập bát La Hán, Ngài là vị La Hán sau khi chứng quả vẫn thường du hóa trong dân gian. Nhờ vào sự gần gũi này, ngài đã giúp Đạo Phật trở nên hưng thịnh tại Ấn Độ. Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ 15, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ trong Linh Thứu Sơn.
Thứ tự sắp xếp tượng 18 A La Hán
Để bài trí tượng 18 A La Hán đẹp nhất bạn nên chia thành 2 dãy, mỗi dãy bao gồm 9 vị. Một bên là những tượng La Hán ở Miền Bắc thường ngồi trên tảng đá hay gốc cây. Bên còn lại là các tượng La Hán ở Miền Nam có tư thế cưỡi ngựa hoặc các con thú khác. Cách sắp xếp này đã được nhiều chuyên gia nhận định nên gia chủ yên tâm khi bài trí theo nhé. Lưu ý trước khi bài trí nên lau hết bụi bẩn và đặt tại những vị trí cao, thoáng mát để thu hút tài lộc, gặp nhiều may mắn.
Mong rằng các bạn sẽ có thêm nhiều kiến thức cũng như biết được cách bài trí tượng 18 A La Hán phù hợp mang đến bình yên trong căn nhà mình. Với kinh nghiệm gần 1 thập niên trong lĩnh vực điêu khắc tượng Phật Giáo, Điêu Khắc Văn Nhân tự tin đem đến cho bạn sản phẩm đẹp, phù hợp với ngôi nhà của mình. Liên hệ với chúng tôi qua thông tin bên dưới để được tư vấn và hỗ trợ thiết kế nhé.
Hotline / Zalo: 0914451405
Địa Chỉ: Đường số 44, Khu Phố 8, P. Hiệp Bình Chánh, Tp. Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh
Fanapge: https://www.facebook.com/dieukhacvannhan